Chấn thương ngực là gì? Các công bố khoa học về Chấn thương ngực

Chấn thương ngực là một tình trạng khi có sự tổn thương, gây ra đau hoặc khó thở trong khu vực ngực. Đây có thể là kết quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm: viêm ...

Chấn thương ngực là một tình trạng khi có sự tổn thương, gây ra đau hoặc khó thở trong khu vực ngực. Đây có thể là kết quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm: viêm phổi, chứng viêm xoang, đau thần kinh mãn tính, viêm màng phổi, chứng viêm ruột kết, cơn đau tim, bệnh về cơ xương khớp, chấn thương cơ, v.v. Người bị chấn thương ngực có thể trải qua các triệu chứng như đau ngực, đau lan ra vai hoặc cánh tay, khó thở, buồn nôn, và ho. Để chẩn đoán và điều trị chấn thương ngực, nên tìm sự tư vấn và hỗ trợ từ bác sĩ.
Chấn thương ngực có thể có nhiều nguyên nhân và triệu chứng khác nhau. Dưới đây là một số nguyên nhân và triệu chứng chính của chấn thương ngực:

1. Cơn đau tim: Chấn thương ngực có thể là dấu hiệu của một cơn đau tim. Triệu chứng bao gồm đau ngực kéo dài, lan ra cánh tay trái, cẳng chân, lưng hoặc hàm dưới. Cơn đau thường đi kèm với mệt mỏi, khó thở, buồn nôn, nôn mửa và ho.

2. Viêm phổi: Chấn thương ngực có thể là một biểu hiện của viêm phổi. Triệu chứng đi kèm bao gồm ho, đau ngực khi hít thở sâu, khó thở, sốt và mệt mỏi.

3. Chứng viêm ruột kết: Chấn thương ngực cũng có thể xuất phát từ chứng viêm ruột kết. Bệnh nhân có thể trải qua đau ngực ở phần trên bên trái, đau nhức ở quả tim, buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy.

4. Chấn thương cơ xương khớp: Gãy xương ở ngực hoặc chấn thương ở xương sườn cũng có thể gây ra đau ngực.

5. Viêm màng phổi: Viêm màng phổi là một căn bệnh nhiễm trùng được gây ra bởi vi khuẩn hoặc vi rút. Triệu chứng chính bao gồm đau ngực, khó thở, ho khan hoặc có đờm, sốt và mệt mỏi.

Khi gặp phải chấn thương ngực, rất quan trọng để tìm tư vấn y tế và được khám bởi bác sĩ để xác định nguyên nhân chính xác và điều trị phù hợp.
Để cung cấp thông tin chi tiết hơn về chấn thương ngực, dưới đây là một số nguyên nhân và triệu chứng cụ thể:

1. Chấn thương qua đột quỵ: Một số nguyên nhân chấn thương ngực có thể là do các cơn đau tim, như đau tim bẩm sinh hoặc cơn đau tim do một cú đánh.

- Triệu chứng: Đau ngực kéo dài, lan ra vai, cổ, cánh tay hoặc hàm dưới. Có thể có khó thở, mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa và mồ hôi lạnh.

2. Viêm phổi: Chấn thương ngực cũng có thể là biểu hiện của viêm phổi - một viêm nhiễm trong khu vực phổi.

- Triệu chứng: Đau ngực khi hít thở sâu, ho khan hoặc ho có đờm, khó thở, sốt, mệt mỏi và khóc khát.

3. Chấn thương xương sườn: Một chấn thương trực tiếp vào xương sườn có thể dẫn đến gãy xương hoặc chấn thương tại khu vực đó.

- Triệu chứng: Đau ngực, đau khi ho, lấy hơi sâu hoặc khi chuyển động. Có thể cảm thấy một vết đau hoặc sưng tại vị trí chấn thương.

4. Các nguyên nhân khác: Ngoài ra, chấn thương ngực cũng có thể do các nguyên nhân khác như chấn thương cơ hoặc cơ xương khớp, viêm xoang, chứng viêm ruột kết, chấn thương do tai nạn hoặc vận động quá độ, v.v.

- Triệu chứng: Đau tại vị trí chấn thương, khó thở, khó chịu hoặc khó nói.

Mỗi trường hợp chấn thương ngực có thể khác nhau và cần được đánh giá kỹ lưỡng bởi bác sĩ. Nên đến cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn và kiểm tra chính xác nguyên nhân của chấn thương ngực.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chấn thương ngực":

Pseudoaneurysm của mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ sau chấn thương ngực và được chẩn đoán bằng cộng hưởng từ tim: một báo cáo trường hợp Dịch bởi AI
Journal of Medical Case Reports - - 2012
Tóm tắt Giới thiệu

Pseudoaneurysm vòng quanh van là một loại giãn mạch hiếm gặp của động mạch chủ trái, chủ yếu được mô tả ở người trẻ tuổi gốc Phi. Những giãn mạch này được chia thành hai loại khác nhau, đó là loại dưới van hai lá hoặc dưới động mạch chủ, trong đó loại dưới động mạch chủ là ít gặp hơn. Loại dưới động mạch chủ thường được định vị ở mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ. Theo kiến thức tốt nhất của chúng tôi, đây là báo cáo đầu tiên về pseudoaneurysm ở mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ liên quan đến hẹp động mạch chủ, hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường, van động mạch chủ hai lá và ống động mạch vẫn thông được chẩn đoán bằng cộng hưởng từ tim mạch.

Trình bày trường hợp

Chúng tôi báo cáo trường hợp của một cậu bé 15 tuổi gốc Phi–Mỹ có tiền sử chấn thương ngực nhẹ, được tiến hành đánh giá siêu âm tim như một phần trong quá trình khám ngoại trú. Kết quả siêu âm tim nghi ngờ sự hiện diện của pseudoaneurysm mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ, do đó cộng hưởng từ tim mạch được thực hiện để làm rõ hơn phát hiện này. Ngoài việc xác nhận sự hiện diện của giãn mạch, cộng hưởng từ tim mạch cũng cho thấy có hẹp động mạch chủ, van động mạch chủ hai lá, và hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường.

#pseudoaneurysm #mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ #chấn thương ngực #cộng hưởng từ tim mạch #dị tật bẩm sinh #hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY CỘT SỐNG ĐOẠN NGỰC THẮT LƯNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP BẮT VÍT QUA DA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị gãy cột sống đoạn ngực thắt lưng bằng phương pháp bắt vít qua da tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả toàn bộ bệnh nhân được chẩn đoán xác định là chấn thương cột sống mất vững đoạn ngực-thắt lưng, và được phẫu thuật nẹp vít cột sống qua da tại khoa Ngoại Thần kinh Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ 2019 – 2021. Kết quả: 38 bệnh nhân (28 nam, 10 nữ) tuổi trung bình là 40,4±11,3; nhóm tuổi 31-40 chiếm tỉ lệ cao nhất 36,9% đã được phẫu thuật nẹp vít cột sống qua da. Đánh gia sau phẫu thuật theo thang điểm VAS và sự cải thiện góc gù (góc Cobb) cột sống: Trong đó mức độ đau trung bình tính theo thang điểm VAS thời điếm sau phẫu thuật là 2,29 so với thời điểm trước phẫu thuật là 5,08; điểm góc gù chấn thương trung bình trước phẫu thuật và sau phẫu thuật là 14,8o ± 5,3o độ và 9,0o ± 5,3o độ. Thời gian phẫu thuật trung bình là 69,1±15,7 phút. Biến chứng trong phẫu thuật chúng tôi gặp 1 trường hợp tổn thương thành trước cột sống. Biến chứng sau chúng tôi gặp 1 trường hợp nhiễm trùng nông vết mổ. Kết luận: Phẫu thuật bắt vít qua da là phương pháp an toàn, hiệu quả, giảm thời gian điều trị chấn thương mất vững cột sống ngực lưng.
#Chấn thương cột sống ngực thăt lưng #phẫu thuật bắt vít qua da
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG NGỰC KÍN CÓ GÃY NHIỀU XƯƠNG SƯỜN TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau bằng phong bế khoang cạnh sống và kết quả điều trị bệnh nhân chấn thương ngực kín gãy nhiều xương sườn. Đối tượng và phương pháp: 73 bệnh nhân chấn thương ngực kín có gãy ít nhất 3 xương sườn một bên từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 12 năm 2020 tại Khoa phẫu thuật lồng ngực, Bệnh viện quân y 103. Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: 73 bệnh nhân 57 nam và 16 nữ, tuổi trung bình là 52,86; gãy từ 3 đến 5 xương chiếm chủ yếu (86,3%). Điểm VAS khi nghỉ và khi ho giảm, Pa02 tăng có ý nghĩa sau  thực hiện giảm đau cạnh sống (P<0,05). Phương pháp phẫu thuật chủ yếu là dẫn lưu khoang màng phổi 85,3%, có 4 trường hợp được điều trị bằng kết xương sườn. Thời gian nằm viện trung bình 7,8 ngày. Kết luận: Điều trị chấn thương ngực kín gãy nhiều xương sườn có sử dụng giảm đau cạnh sống cho hiệu quả tốt và an toàn.
#Chấn thương ngực kín gãy nhiều xương sườn #giảm đau cạnh sống
Kết quả điều trị phẫu thuật chấn thương ngực kín tại bệnh viện đa khoa Xanh Pôn Hà Nội giai đoạn 2012-2014
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản chấn thương ngực kín. Đa số chấn thương ngực kín được xử trí bằng dẫn lưu màng phổi, chỉ có một tỷ lệ nhỏ phải mở ngực. Nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện Xanh Pôn Hà Nội từ 1/2012 đến 12/2014 trên 113 bệnh nhân chấn thương ngực kín điều trị bằng phẫu thuật nhằm nêu một số nhận xét về đặc điểm triệu chứng, tổn thương và kết quả điều trị phẫu thuật các trường hợp chấn thương ngực kín. Tuổi trung bình 46,6  16,9, nam giới 85%. Nguyên nhân chủ yếu là tai nạn giao thông (60,2%). Thể bệnh chính là tràn máu tràn khí màng phổi (53,1%). Các tổn thương đi kèm như chấn thương sọ não (12,38%), chấn thương bụng kín (14,1%), xương khớp (30,1%). Phẫu thuật chủ yếu là dẫn lưu màng phổi (93%), chỉ có 7% phải mở ngực. Kết quả ghi nhận tốt (71,7%), trung bình (15,1%), xấu (3,5%), tử vong (8,8%), sai sót và biến chứng là 51,3%.  
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG NGỰC KÈM THEO CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO CÓ DẪN LƯU MÀNG PHỔI ĐƠN THUẦN TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Chấn thương ngực kèm theo chấn thương sọ não có dẫn lưu màng phổi đơn thuần là một bệnh cảnh lâm sàng nặng, chăm sóc và điều trị thường khó khăn, đòi hỏi tính chuyên khoa hoá cao. Nghiên cứu nhằm tổng kết và đánh giá thực trạng về điều trị và chăm sóc loại hình thương tổn phức tạp này. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang; Kết quả nghiên cứu ghi nhận ở các biến số: Tuổi, giới tính, lâm sàng, cận lâm sàng, thời gian nằm viện, kết quả điều trị… Số liệu được ghi nhận vào mẫu bệnh án nghiên cứu cho từng bệnh nhân và xử lý bằng chương trình SPSS 20.0. Kết quả: Từ tháng 01/2018 đến 12/2020 có 34 bệnh nhân chấn thương ngực có dẫn lưu màng phổi đơn thuần kèm theo chấn thương sọ não được chẩn đoán và điều trị tại Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực – Bệnh viện hữu nghị Việt Đức. Thời gian từ khi được dẫn lưu màng phổi đến khi rút dẫn lưu trung bình là 7.3 ngày. Thời gian nằm viện trung bình là 10 ngày. Kết quả tốt chiếm 70.6%. Kết luận: Chấn thương ngực kèm theo chấn thương sọ não có dẫn lưu màng phổi đơn thuần là một trong những là một bệnh cảnh lâm sàng nặng, chăm sóc và điều trị đòi hỏi tính chuyên khoa. Kết quả chăm sóc và điều trị nhóm bệnh nhân nghiên cứu phản ánh thực trạng loại hình thương tổn phối hợp này và cho kết quả khả quan.
Kết quả xa khi sử dụng cấu hình cố định ngắn kết hợp với ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép trong phẫu thuật điều trị chấn thương cột sống Denis IIB ở vùng ngực thắt lưng
TẠP CHÍ Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 - - Trang 109-115 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá kết quả xa của phương pháp phẫu thuật sử dụng cấu hình cố định ngắn và ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được tiến hành trên các bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng, Denis IIB điều trị bằng phẫu thuật cố định cột sống cấu hình ngắn kết hợp ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/2013 đến tháng 1/2017. Bệnh nhân được theo dõi từ 1 năm trở lên. Đặc điểm chung của bệnh nhân, tình trạng thần kinh, mức độ lún bờ trước thân đốt sống, góc gù thân đốt và góc gù vùng cột sống được đánh giá trước, sau phẫu thuật và tại thời điểm kết thúc nghiên cứu. Các biến chứng liên quan được ghi lại. Kết quả: Có 36/40 bệnh nhân đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ với thời gian theo dõi từ 17 đến 73 tháng (trung bình là 53,3 tháng). Thời gian phẫu thuật trung bình là 117,6 phút (từ 90 - 165 phút). Hình ảnh X-quang sau phẫu thuật cho thấy sự nắn chỉnh gù cột sống đạt kết quả tốt và được duy trì khá tốt tới thời điểm theo dõi cuối cùng. Có 9/36 bệnh nhân có tổn thương thần kinh không hoàn toàn trước phẫu thuật đã cải thiện từ 1 tới 2 bậc theo phân loại của ASIA. Phẫu thuật không làm tổn thương thần kinh ở 27/36 bệnh nhân. Kết luận: Cấu hình cố định ngắn kết hợp với ghép xương liên thân đốt qua lỗ ghép là một phương pháp phẫu thuật cho kết quả xa tốt điều trị bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng, Denis IIB. Tỉ lệ liền xương tốt ở 91,7% và tỉ lệ thất bại dụng cụ 16,7%.
#Vỡ nhiều mảnh cột sống #cố định ngắn #ghép xương liên thân đốt
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG NGỰC KÍN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Chấn thương ngực kín là nguyên nhân tử vong phổ biến trong chấn thương và có thể để lại di chứng nặng nề. Thương tổn trong chấn thương ngực kín rất đa dạng, chẩn đoán dựa vào cơ chế chấn thương, đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng, điều trị các thương tổn thường gặp thường là điều trị bảo tồn và dẫn lưu màng phổi. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm thương tổn và đánh giá kết quả điều trị của bệnh nhân chấn thương ngực kín. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 83 bệnh nhân chấn thương ngực kín được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ từ 04/2022 đến 12/2022. Kết quả: Bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 52,80, nam giới chiếm 71,25%, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn giao thông 66,25%; đặc điểm lâm sàng đau ngực chiếm 97,59%. Gãy xương sườn thường gặp nhất (91,57%), tổn thương phổi - màng phổi chiếm 53,01%, trong đó: tràn máu màng phổi (37,35%), dập phổi (16,87%), tràn khí - máu màng phổi (12,05%), tràn khí màng phổi đơn thuần 2,40%. Có 82/83 bệnh nhân được điều trị tốt (98,80%), 1 trường hợp viêm mủ màng phổi (1,20%), trung vị thời gian nằm viện là 6 ngày. Có sự khác biệt về thương tổn dập phổi (p=0,035), tràn khí - máu màng phổi (p=0,021), trung vị thời gian nằm viện (p=0,002) và không có sự khác biệt về mức độ tràn máu màng phổi (p=0,698) ở hai nhóm gãy 1-3 xương sườn và >3 xương sườn. Có sự khác biệt về trung vị thời gian nằm viện giữa 2 nhóm có và không có dẫn lưu màng phổi (p=0,007). Kết luận: Nguyên nhân thường gặp nhất là tai nạn giao thông, đau ngực là triệu chứng chủ yếu, gãy xương sườn là thương tổn thường gặp nhất. Gãy nhiều xương sườn làm tăng nguy cơ tổn thương phổi - màng phổi và thời gian nằm viện.
#Gãy xương sườn #tràn khí màng phổi #tràn máu màng phổi #dập phổi #chấn thương ngực kín
Kết quả điều trị chấn thương tim tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Khác với vết thương tim, chấn thương tim có thể lâm sàng rất đa dạng. Mục đích của nghiên cứu này là xây dựng qui trình xử trí chấn thương tim dựa vào các thể lâm sàng phù hợp với điều kiện thực hành tại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện với 34 bệnh nhân, có độ tuổi trung bình là 40,5. Nguyên nhân chính của chấn thương tim là tai nạn giao thông (20/34 trường hợp). Các thể lâm sàng theo mức độ chèn ép tim là: tối cấp: 3, cấp: 10, bán cấp: 13, không chèn ép: 8. Có 58,8% có chấn thương ngực, 41,2% có gãy xương ức kèm theo. Tất cả các bệnh nhân thể tối cấp và đa số thể cấp được phẫu thuật với đường mở xương ức rộng rãi và các bệnh nhân đều cho kết quả tốt khi ra viện. Đa phần thể bán cấp (11/13 trường hợp) được dẫn lưu Marfan và thể không chèn ép tim được điều trị bảo tổn ở 4/8 trường hợp. Có hai trường hợp tử vong: 1 do tình trạng nhiễm trùng ở bệnh nhân đa chấn thương nặng, 1 do tổn thương buồng tim quá lớn, dẫn tới tình trạng chảy máu mất kiểm soát sau mổ. Thể lâm sàng dựa trên mức độ cấp tính của chèn ép tim là cơ sở quan trọng để thực hiện phẫu thuật chấn thương tim.
#chấn thương tim #chấn thương ngực #chèn ép tim cấp #tràn máu màng tim #gãy xương ức.
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CỐ ĐỊNH CỘT SỐNG BẰNG VÍT TĂNG CƯỜNG CEMENT SINH HỌC CHO BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG NGỰC THẮT LƯNG CÓ LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật cố định cột sống ngực – thắt lưng bằng vít tăng cường cement sinh học cho bệnh nhân chấn thương cột sống ngực thắt lưng có loãng xương. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả theo dõi dọc hồi cứu và tiến cứu trên 34 bệnh nhân có chẩn đoán chấn thương cột sống ngực thắt lưng có loãng xương được phẫu thuật tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong thời gian từ 06/2019 đến 6/2022. Kết quả: Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nam/nữ = 1.62/1; độ tuổi trung bình là 61,5 ± 13,2 tuổi. Đa số các bệnh nhân có biểu hiện đau cột sống ngực – thắt lưng (79,4%). Các bệnh nhân có biểu hiện tổn thương thần kinh chủ yếu ở mức độ trung bình và nhẹ (23,5%). Mức độ đau trung bình trước mổ VAS là 6,3 ± 1,7). Chỉ số giảm chức năng cột sống trước khi phẫu thuật của BN trung bình là 51,8 ± 12,3%, trong đó chủ yếu bệnh nhân bị mất chức năng cột sống nhiều chiếm 61,8%. Điểm T-score trung của bệnh nhân tham gia nghiên cứu là -3,9 ± 0,6. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là vùng bản lề ngực – thắt lưng chiếm 51,4%. Chiều cao của đốt sống giảm mạnh trước mổ, trung bình chiều cao tường trước (12,4 ± 1,8mm) và tường giữa (9,3 ± 1,7mm). Trung bình góc gù thân đốt sống là 25,9° ± 4,0 độ, góc gù vùng trước mổ là 25,8° ± 4,3 độ. Tính theo thang điểm TLIC, điểm trung bình của bệnh nhân là 4,65 ± 1,67. Thời gian phẫu thuật trung bình là 107,9 ± 15,9 phút, lượng máu mất trung bình là 300,0 ± 96,9ml, thời gian nằm viện trung bình là  6,6 ± 1,8 ngày. Tai biến trong mổ có rách màng cứng chiếm 2,9%, rò cement ra cạnh đốt sống chiếm 5,9%. Biến chứng sau mổ có 2,9% bệnh nhân nhiễm trùng vết mổ và 2,9% bệnh nhân nhiễm khuẩn tiết niệu, đều được điều trị đáp ứng với kháng sinh và ra viện. Chỉ số ODI 1 tháng và 6 tháng đều giảm đáng kể sau phẫu thuật có ý nghĩa thống kê trên 99% (p=0,000<0,001, Paired Samples T-Test). Kết quả chỉnh hình cột sống với góc gù thân đốt sống và góc gù vùng đều giảm đáng kể so với trước mổ có ý nghĩa thống kê trên 99% (p=0,000 <0,001, Paired Samples T-Test). Chiều cao của đốt sống cũng được khôi phục đáng kể so với trước phẫu thuật sau 1 tháng và 6 tháng có ý nghĩa thống kê trên 99% (p=0,000<0,001, Paired Samples T-Test). Chất lượng cuộc sống tốt và rất tốt sau mổ 6 tháng tính theo thang điểm Macnab đạt 94,1%. Tỉ lệ lỏng vít sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ rất nhỏ 0,37%, không có trường hợp nào gãy vít, nhổ vít, gãy rod, bong nẹp sau phẫu thuật. Trong số 34 bệnh nhân nghiên cứu, chỉ có 2 đốt sống liền kề bị tổn thương. Sau phẫu thuật có 94,1% bệnh nhân được điều trị loãng xương sau mổ. Kết luận:  Kết quả phẫu thuật cố định cột sống bằng vít tăng cường cement sinh học ở bệnh nhân chấn thương cột sống ngực – thắt lưng có loãng xương tương đối tốt, đạt kết quả cải thiện lâm sàng và kết qủa chỉnh hình cột sống đáng kể. Tỉ lệ tai biến trong và sau mổ thấp và không có biến chứng nào nặng nề.
#vít tăng cường cement sinh học #cố định cột sống ngực - thắt lưng có loãng xương
So sánh đặc điểm lâm sàng, hình ảnh điện quang ở bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng Denis iib theo phân loại chia sẻ lực tải của đốt sống tổn thương
So sánh đặc điểm lâm sàng, hình ảnh điện quang theo phân loại chia sẻ lực tải của thân đốt sống ở bệnh nhân chấn thương cột sống vùng ngực thắt lưng mất vững loại Denis IIB.  Nghiên cứu cắt ngang mô tả, được tiến hành trên 40 bệnh nhân bị chấn thương vỡ nhiều mảnh thân đốt sống ở một đốt sống vùng ngực thắt lưng có chỉ định phẫu thuật. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới, mức độ đau cột sống và tổn thương thần kinh giữa hai nhóm điểm LSC. Trung bình góc gù thân đốt sống, góc gù vùng cột sống, khoảng liên cuống cung của đốt sống tổn thương ở nhóm điểm LSC ≥7 cao hơn nhóm điểm LSC <7 nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Nhóm có điểm LSC ≥7 có mức độ hẹp ống sống nặng hơn nhóm có điểm LSC<7 với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.  
#Vỡ nhiều mảnh cột sống #Dấu hiệu lâm sàng #Hình ảnh điện quang #Phân loại theo lực tải.
Tổng số: 39   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4